Lưu vong ở Bắc Ngụy Lưu_Sưởng_(Lưu_Tống)

Sưởng tuy học vấn không sâu sắc, nhưng đã có đọc qua nhiều sách sử, trước sau dâng lên biểu, khải, đều là do ông tự làm. Triều đình Bắc Ngụy tỏ ra coi trọng, gả Vũ Ấp công chúa, bái Sưởng làm Thị trung, Chinh nam tướng quân, Phò mã đô úy, phong tước Đan Dương vương. Hơn năm sau công chúa mất, Sưởng lại được gả Kiến Hưng trưởng công chúa.[5][7][8]

Tháng 10 ÂL năm Hoàng Hưng đầu tiên nhà Bắc Ngụy, tức năm Thái Thủy thứ 3 nhà Lưu Tống (467), Lưu Tống Minh đế sai Viên ngoại lang Lý Phong đi sứ Bắc Ngụy, đem theo 2000 lạng vàng để chuộc Sưởng, Bắc Ngụy Hiến Văn đế không đồng ý,[9] nhưng giáng chiếu mệnh Sưởng gởi thư cho Minh đế (vốn là hoàng tử thứ 11 của Văn đế), nhằm nối tình anh em. Minh đế không trả lời, cho rằng Sưởng chỉ là con vợ lẽ, đòi ông phải theo lối Tuân Oanh đối đáp với Sở Cung vương, xưng là ngoại thần với mình. Ít lâu sau, triều đình Bắc Ngụy là giáng sắc mệnh Sưởng tiếp tục gởi thư cho Minh đế, ông từ chối, lấy cớ Minh đế không kính trọng anh trai thì gởi thư cũng vô ích, triều đình nghe theo.[7][8] Tháng 11 ÂL cùng năm, Minh đế đổi phong tước của Sưởng là Tấn Hi vương.[10] Ở Ngụy, Sưởng được bái làm Ngoại đô tọa đại quan. Đến khi trưởng công chúa mất, Sưởng lại được lấy Bình Dương trưởng công chúa.[7][8]

Sưởng thích săn bắn, yêu võ nghệ, sang Bắc Ngụy đã 12 năm, nhận chức tước nhưng không có nhiệm vụ gì, chẳng khác gì bình dân mặc quan phục. Khi Sưởng mắng mỏ đầy tớ, nói năng lẫn lộn tiếng Tiên Titiếng Hán. Tuy ngồi ở vị trí cao trong triều đình, nhưng Sưởng không được kính trọng, nhiều lần chịu sỉ nhục, thậm chí động cả tay chân, khiến ông bị đau đến nỗi kêu lên thất thanh, ngay cả Hiến Văn đế cũng biết, nhưng không hỏi. Khi Sưởng kể lại chuyện xưa ở Tống, nhắc đến chinh phạt, không kìm được mà rơi nước mắt, khiến mọi người cảm động. Nhưng bản tính nóng nảy không đổi, vui giận không chừng, mỗi khi phát phẫn thì đập phá đồ đạc, mời gọi kẻ sĩ đến từ miền nam thì không đủ chân thành, do vậy Sưởng bị người đời xa lánh.[7][8]

Năm Thái Hòa đầu tiên (477), Sưởng được chuyển làm Nội đô tọa đại quan. Cùng năm, Tiêu Đạo Thành giết Lưu Tống Thuận đế, lập ra nhà Nam Tề, Bắc Ngụy Hiếu Văn đế nhân đó sai chư tướng nam phạt, giáng chiếu hứa hẹn với Sưởng giúp ông khôi phục cơ nghiệp, cho Sưởng lấy hiệu tướng quân đã có để cùng đi với quân đội Bắc Ngụy. Ghé qua Từ Châu, Sưởng khóc lạy mẹ ở nhà cũ, khiến mọi người thương cảm. Sau đó Sưởng thăm viếng những nơi quen thuộc ngày xưa, đi đến đâu cũng chảy nước mắt, bộ hạ chẳng ai không cay mắt. Khi đến quân doanh, Sưởng ra trước trận, vái tướng sĩ ở bốn mặt, tự trình bày hoàn cảnh nước nhà diệt vong, nhận phúc lành của triều đình Bắc Ngụy, lời lẽ thiết tha, thanh âm kích động, khiến ba quân đều cảm thán. Sau đó Sưởng sợ mùa mưa sắp đến, dâng biểu xin lui quân, triều đình nghe theo. Sưởng lại được gia Nghi đồng tam tư, lĩnh chức Nghi tào thượng thư. Vào lúc Hiếu Văn đế cải cách triều nghi, giáng chiếu cho Sưởng và Tưởng Thiếu Du chuyên trách việc ấy. Sưởng phân tách phương thức cũ, giản lược nhưng không bỏ sót.[7][8]

Hiếu Văn đế cho Sưởng vào gặp ở Tuyên Văn đường, vỗ về ông, sau đó cho con gái của Sưởng nhận tước Hương quân.[7] Sau đó Sưởng được làm Trung thư giám.[7][8]

Tháng giêng ÂL năm thứ 16 (492), triều đình đặt ra Ngũ đẳng tước, Sưởng được phong làm Tề Quận khai quốc công, gia hiệu Tống vương. Tháng 9 ÂL, Hiếu Văn đế cũng gặp thủ lĩnh người Đê của nước cũ Cừu Trì là Vũ Hưng vương Dương Tập Thủy ở Tuyên Văn đường, rồi gọi ông ta vào ăn tiệc. Do thân phận thấp kém của Dương Tập Thủy, Hiếu Văn đế phải giải thích với Sưởng rằng mình muốn vỗ về các nước nhỏ ở xa; Sưởng đáp lại bằng cách ca tụng ân đức của hoàng đế.[7][8][11] [lower-alpha 3]

Mùa xuân năm thứ 17 (493), Nam Tề Vũ đế điều động vật lực, ý đồ giành lại Từ Châu, Sưởng mấy lần khóc lóc cầu xin Hiếu Văn đế cho mình ra giữ biên thùy, tập hợp di dân, rửa mối thù mất nước; Hiếu Văn đế cũng rơi nước mắt, đãi ngộ thêm nồng hậu. Trong tháng ấy, Hiếu Văn đế tổ chức đại nghị nam phạt ở điện Kinh Vũ, giáng chiếu cho nhiều nơi chuẩn bị rơm rạ cho ngựa.[7][8][12] [lower-alpha 4] Sau đó Ung Châu thứ sử Tào Hổ của Nam Tề trá hàng, Sưởng được nhận chiếu đem binh ra Nghĩa Dương, vô công mà về.[7][8]

Tháng 7 ÂL năm thứ 18 (494), Sưởng được trừ làm Sứ trì tiết, Đô đốc Ngô, Việt, Sở chư quân sự, Đại tướng quân, trấn thủ Bành Thành [lower-alpha 5]; ông cố từ chối, Hiếu Văn đế giáng chiếu không đồng ý, còn ban 4000 xúc vải. Khi xuất phát, Hiếu Văn đế đích thân đưa tiễn, mệnh cho bá quan làm thơ tặng Sưởng, còn lấy 1 bộ văn tập của họ ban cho ông. Nhân đó Hiếu Văn đế cũng tự làm văn để ban cho Sưởng, thể hiện sự trọng thị đối với ông. Sưởng rời khỏi Bành Thành đã lâu, nhưng trái nhà (trai) cũ ở Vũ Sơn trì vẫn còn, ông bèn sửa sang rồi dọn vào ở đấy. Nhưng Sưởng không thể vỗ về vùng biên, thu nạp kẻ sĩ, còn gia đình lục đục, trong ngoài rối rắm, khiến lòng người rời rã, chẳng ai không thất vọng.[7][8][13] Sưởng dự tính xây mộ ở tây nam Bành Thành, sẽ chôn người vợ công chúa thứ 3 của mình cùng mồ nhưng khác huyệt. Trong lúc xây dựng, mồ lở, đè chết hơn 10 người; sau đó Sưởng dời vị trí mồ, hao tốn tiền của.[7][8]

Hiếu Văn đế đích thân nam chinh, Sưởng chờ ở hành cung; đế sai thị trung chào hỏi và yên ủi ông.[7] Năm thứ 19 (495), Sưởng đánh Ti Châu của Nam Tề, nhiều lần thắng trận, nhưng Nghĩa Dương cố thủ không hạ được, bèn lui quân.[7][14] Hiếu Văn đế đến Bành Thành, Sưởng được vào gặp, nhận tội không làm được gì, đế vỗ về ông.[7]

Tháng 10 ÂL, Sưởng vào chầu ở kinh sư, Hiếu Văn đế tổ chức Đại tuyển quan lại (chỉ dành cho môn phiệt) ở Quang Cực đường, ông cũng góp lời ca tụng hoàng đế. Đến khi luận về Đại tướng quân, Hiếu Văn đế nói: "Lưu Sưởng gần được như thế!" rồi ban cho ông 20 giáp sĩ được đeo kiếm.[7][8]

Tháng 4 ÂL năm thứ 21 (497), Sưởng mất ở Bành Thành, hưởng thọ 62 tuổi. Hiếu Văn đế làm lễ cử ai, cấp Ôn minh bí khí, trăm vạn tiền, 500 xúc vải, 300 cân nến, 1 bộ triều phục, 1 bộ áo; Sưởng được tặng Giả Hoàng Việt, Thái phó, lĩnh Dương Châu thứ sử; lễ tang được gia Thù lễ, bày Cửu tích, cấp trước sau các bộ nhạc Vũ bảo, Cổ xuy, dựa theo cố sự của Lang Da Vũ vương Tư Mã Trụ nhà Tây Tấn; thụy là Minh.[7][8][15]